Xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
Giai cấp nông dân Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vì thế, xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự nỗ lực của mọi cấp, mọi ngành, trong đó có vai trò chủ đạo của Hội Nông dân Việt Nam.
Xây dựng mẫu hình người nông dân Việt Nam - từ lý luận đến thực tiễn
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Thào Xuân Sùng (thứ 3 từ trái) và đoàn công tác thăm mô hình nuôi vịt của Nông dân Việt Nam xuất sắc 2018 Ngô Đức Thắng ở Hưng Yên - Nguồn: danviet.vn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa nhân dân ta mà “nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân”(1) lên vị thế là gốc, là chủ, làm chủ vận mệnh dân tộc Việt Nam với nhận thức “Muốn kháng chiến kiến quốc thành công”(2), “ắt phải dựa vào quần chúng nông dân”, “phải bồi dưỡng lực lượng của họ” và “phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở”(3).
Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và phải được giải quyết đồng bộ theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nguồn lực phát triển của Việt Nam là nông nghiệp, mà nông dân lao động là lực lượng quan trọng có tính tích cực cách mạng. Vì vậy, phải đào tạo nông dân có trình độ sản xuất ngang bằng với trình độ của nông dân các nước tiên tiến trong khu vực và xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, đủ bản lĩnh chính trị và đóng vai trò làm chủ nông thôn mới; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hiện đại, có cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao, có đời sống dân chủ và công bằng. Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó giai cấp nông dân giữ vai trò chủ thể, Hội Nông dân Việt Nam giữ vai trò trung tâm và nòng cốt.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, hỗ trợ nông dân, hợp tác xã, tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới, đưa kinh tế hộ gia đình nông dân thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ và được giao đất ổn định lâu dài theo 5 quyền (chuyển đổi, thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển nhượng). Từ đó, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới về nông sản, với giá trị đạt 36,2 tỷ USD năm 2017; nông nghiệp trở thành ngành duy nhất có xuất siêu. Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, xây dựng nông thôn mới, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững được đẩy mạnh với bình quân hằng năm có trên 6,2 triệu hộ nông dân đăng ký tham gia và có 3,55 triệu hộ nông dân đạt danh hiệu “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi”, tạo được tâm lý tự tin và ý chí thoát nghèo.
Những phẩm chất cao đẹp, như lòng yêu nước; lòng nhân ái vị tha, hòa hiếu, khoan dung; tình làng, nghĩa xóm; truyền thống đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau; dũng cảm, kiên cường, bất khuất, mưu trí, sáng tạo, cần cù, chịu khó của người nông dân và giai cấp nông dân luôn được giữ vững và phát huy, tiếp nối trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn hiện nay.
Đến tháng 6-2018 các cấp hội nông dân đã phát triển được 10.207.929 hội viên, tỷ lệ hộ nông dân có hội viên chiếm trên 80% tổng số hộ, hội viên là chủ hộ chiếm 70%, sinh hoạt ở các chi hội, tổ hội theo địa bàn dân cư và theo ngành, nghề; hướng dẫn thành lập được 1.135 hợp tác xã và 101.000 tổ hợp tác; tích cực đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, vận động nông dân, tạo sự hấp dẫn và lòng tin tưởng đối với tổ chức hội của mình.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng mẫu hình người nông dân Việt Nam thời gian qua còn hạn chế, khuyết điểm cần quan tâm khắc phục.
Trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu, cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp nông dân và công tác nông vận để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5-8-2008, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, theo quan điểm phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân, vai trò trung tâm và nòng cốt của Hội Nông dân Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, có những nội dung còn chưa được tập trung tổng kết làm rõ, nhất là củng cố cơ sở xã hội - mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với giai cấp nông dân thông qua hội nông dân và hợp tác xã còn chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa thực hiện việc giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo hình thức đấu thầu quyền sử dụng đất được thực hiện rất ít và việc giao đất, cho thuê đất trực tiếp vẫn là chủ yếu; mối quan hệ giữa cấm nhận quyền sử dụng đất vượt quá hạn mức quy định và nhu cầu tích tụ ruộng đất của nông dân còn nhiều hạn chế và lúng túng. Tăng trưởng kinh tế nông nghiệp chưa gắn với khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên (theo điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích đất bị suy thoái đang là 1,3 triệu héc-ta, chiếm 4% diện tích lãnh thổ, đất “có vấn đề” lên đến 10 triệu héc-ta, chiếm 31% diện tích cả nước mà chủ yếu lại là đất nông nghiệp với trên 846 nghìn héc-ta và liên quan trực tiếp đến một bộ phận lớn nông dân)...
Xuất hiện các mâu thuẫn, như mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị, an toàn với sự hạn chế về trình độ học vấn, kiến thức, kỹ năng canh tác nông nghiệp của một bộ phận cán bộ và phần lớn người nông dân; mâu thuẫn giữa nhu cầu gia tăng lợi ích kinh tế với những bất cập trong xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp của mỗi vùng và mỗi hộ nông dân đang tồn tại phổ biến hình thức sản xuất nhỏ để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp; mâu thuẫn giữa nông dân với các chủ thể khác trong phân phối lợi ích do phần lớn nông dân chưa nâng được thêm giá trị kinh tế đáng kể ở các khâu tiếp theo sau khâu sản xuất; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế xanh, bền vững với những tiêu cực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và đô thị hóa; mâu thuẫn giữa nhu cầu đẩy mạnh sản xuất với những diễn biến phức tạp và bất lợi của biến đổi khí hậu, với yêu cầu bảo vệ nguồn tài nguyên nông nghiệp và môi trường sinh thái...
Nhiều giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc ở vùng nông thôn đã và đang bị xâm hại, một bộ phận cán bộ và người nông dân bị tha hóa bởi lối sống thực dụng, tình làng nghĩa xóm của làng xã Việt Nam và sự hồn nhiên thanh bình của xã hội nông thôn không còn đậm nét, lòng nhân ái và bao dung độ lượng trong giao tiếp hằng ngày mờ nhạt dần đi, lối sống khép kín và ích kỷ tăng dần lên, đặt ra yêu cầu cấp bách phải làm tốt công tác quy hoạch kinh tế - xã hội, giữ gìn và bảo vệ, phát huy các yếu tố tích cực của cộng đồng làng xã Việt Nam.
Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản năm 2016 cho thấy, qua phân tích 31.016.720 người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ở khu vực nông thôn, số người chưa được đào tạo chiếm 65,86%, số đã được đào tạo nhưng không có chứng chỉ và bằng tốt nghiệp chiếm 18,27%, số đã được đào tạo và có chứng chỉ chiếm 4,74%... Chất lượng, trình độ của lao động nông thôn rất thấp đang là rào cản đối với người nông dân trong nâng cao năng suất lao động, trong khi vai trò hỗ trợ kiến thức về nông nghiệp và chính sách, pháp luật cho nông dân của chính quyền, hội nông dân và hợp tác xã còn hạn chế.
Phương hướng và nội dung xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới
Phương hướng xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới
Phấn đấu xây dựng, hình thành thế hệ nông dân mới phát triển toàn diện, từng bước hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ thông minh, năng lực sáng tạo, kỹ năng canh tác nông nghiệp công nghệ cao, thể lực tốt, tâm hồn trong sáng, văn minh, nêu cao lòng tự hào, tự trọng dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Hoàn thiện các quy định, quy trình, thể chế, chế định pháp lý, thiết chế văn hóa về xã hội nông thôn, bảo đảm phát huy được những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tạo môi trường và điều kiện tích cực để xây dựng thế hệ nông dân mới thực sự phát huy vai trò chủ thể trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Xác định các tiêu chuẩn, tiêu chí xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Các nội dung cơ bản về xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Thứ nhất, giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.
Tình cảm và tư tưởng yêu nước của nhân dân ta với đại bộ phận là nông dân xuất hiện rất sớm trong quan hệ với thiên nhiên bằng lao động sáng tạo và trong quan hệ với xã hội bằng ý chí độc lập, tự do, đã trở thành giá trị hàng đầu và quan trọng nhất chi phối toàn bộ hệ thống giá trị của dân tộc Việt Nam.
Tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, ngày 10-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(4).
Các thế hệ nhân dân Việt Nam, trong đó có giai cấp nông dân luôn coi chủ nghĩa yêu nước mà cốt lõi là độc lập, tự do là một đặc trưng nổi bật nhất, là chuẩn mực đạo đức, lối sống và vẻ đẹp thiêng liêng của con người Việt Nam. Vì thế, tình cảm và tư tưởng yêu nước luôn là một trong những giá trị đạo đức cao đẹp nhất được mỗi người Việt Nam theo đuổi, giữ gìn và phát huy, chú trọng kết hợp chặt chẽ đường lối dựng nước và định hướng lấy dân làm gốc, dựa vào dân để tiến hành dựng nước và giữ nước, đoàn kết bên trong và hòa hiếu bên ngoài nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Xây dựng tư tưởng yêu nước bao hàm: tinh thần độc lập tự chủ, anh hùng bất khuất, giàu tính cộng đồng, tính nhân dân, tiến bộ xã hội, khát vọng về tự do, không vị kỷ, không hẹp hòi dân tộc và tôn trọng các dân tộc khác, sống khoan dung và quý trọng tính hòa hiếu để bảo vệ độc lập, tự do và phẩm giá của dân tộc. Cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để xây dựng đất nước giàu mạnh.
Thứ hai, biết giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, hợp tác và giúp đỡ nhau.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vấn đề sống còn của dân tộc Việt Nam, là nguyên tắc ứng xử cho mọi thế hệ người Việt Nam và là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu chung của nhân dân ta hiện nay là phấn đấu đạt được dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu cụ thể của giai cấp nông dân là đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn và trí thức hóa nông dân để nước ta phát triển mạnh mẽ cả đô thị và nông thôn, cả công nghiệp và nông nghiệp, cả công nhân và nông dân.
Thực hiện mục tiêu được Đảng đề ra, giai cấp nông dân và mỗi người nông dân phải tăng cường đoàn kết và hợp tác, tham gia xây dựng tổ hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp để tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, giữ mối liên minh công nông và trí thức thật bền chặt, coi trọng liên kết với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị nông sản thực phẩm. Chăm lo củng cố, xây dựng giá trị văn hóa đoàn kết cũng đồng nghĩa tăng cường giáo dục, vận động người nông dân cùng với cán bộ hội nông dân đấu tranh xóa bỏ tâm lý sản xuất nhỏ, manh mún, cá thể, bảo thủ, hẹp hòi, vị kỷ, phường hội, bè phái, cục bộ địa phương, cục bộ dân tộc, trọng nam khinh nữ, tầm nhìn hạn hẹp hiện nay.
Thứ ba, có trình độ học vấn và kiến thức khoa học - kỹ thuật tiên tiến.
Đại hội XII của Đảng xác định tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; chú trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững, xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn và ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế hộ, vai trò hạt nhân của doanh nghiệp và hợp tác xã, vai trò trung tâm và nòng cốt của Hội Nông dân Việt Nam.
Các chủ trương đó của Đảng đòi hỏi tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo và dạy nghề cho đội ngũ cán bộ hội nông dân và hội viên, nông dân để có trình độ học vấn và kỹ năng canh tác nông nghiệp, có khả năng tham gia thị trường và làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế. Các cấp hội nông dân phối hợp với các cấp và các ngành tăng cường hỗ trợ khuyến khích nông dân học nghề và áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và chế biến các sản phẩm nông nghiệp.
Thứ tư, biết kết hợp bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa lao động cần cù và sáng tạo, trọng nghĩa tình, kiên nhẫn và kiên cường.
Dân tộc Việt Nam đã thể hiện khả năng kết hợp hài hòa cả ba yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” trong xây dựng và bảo vệ đất nước bằng đức tính cần cù và tiết kiệm, lao động sáng tạo và hiệu quả. Lao động cần cù và sáng tạo luôn là giá trị văn hóa đạo đức cao đẹp của dân tộc, của giai cấp nông dân. Cần, kiệm, liêm, chính luôn là một giá trị, là truyền thống văn hóa tốt đẹp mà người nông dân cùng toàn thể dân tộc tôn vinh. Người nông dân cùng dân tộc luôn có những cái hay được sáng tạo bởi một đời sống quốc sử và quốc văn về tư tưởng trọng nông nghiệp và nông dân, về dựng nước và giữ nước, về ngôn ngữ và văn học nghệ thuật, về tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết, về lấy ít địch nhiều và lấy yếu đánh mạnh, về “dĩ bất biến ứng vạn biến”, về trong ấm và ngoài êm để hình thành bản sắc thuộc tính của người Việt Nam mà người nông dân thế hệ mới phải phát huy trong thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
Lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc Việt Nam hình thành nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và trở thành sức mạnh thôi thúc nhân dân ta mà chủ đạo là nông dân kiên cường vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do. Trong tư tưởng của dân tộc Việt Nam mà nông dân là lực lượng chủ đạo về tất cả các ý nghĩa, về nhân nghĩa thì cứu nước vì “nước mất nhà tan” là cái nghĩa lớn nhất, là đại nghĩa và là nguyên lý đạo đức lớn nhất dễ làm rung động nhất tâm hồn Việt Nam.
Thực hiện mô hình CNH, HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, giai cấp nông dân Việt Nam và mỗi người nông dân phải biết giữ gìn và phát huy những đức tính tốt đẹp vì nghĩa, kiên nhẫn, kiên cường của dân tộc để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản xuất nông sản thực phẩm vì sức khỏe cộng đồng và không ngừng tăng thu nhập cho hộ nông dân. Đồng thời, giai cấp nông dân và mỗi người nông dân phải kiên quyết phòng, chống những khuyết tật của kinh tế thị trường, lối nghĩ và lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường của văn hóa tư sản, giải quyết hài hòa các lợi ích và không để xảy ra xung đột giữa các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Các giải pháp chủ yếu xây dựng người nông dân thế hệ mới
Thứ nhất, thực hiện những nội dung xây dựng người nông dân theo mẫu hình nêu trên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó Hội Nông dân Việt Nam giữ vai trò trung tâm và nòng cốt. Hội nông dân các cấp chủ động, tích cực tham gia và phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền để hoạch định các cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chất lượng cao bằng việc đẩy mạnh công tác tập huấn đào tạo nghề cho nông dân.
Thứ hai, tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp cùng Nhà nước đầu tư cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, gắn các đơn vị sản xuất nông nghiệp và những người nông dân sản xuất giỏi với các hộ nông dân để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn thông qua cơ cấu lại mạnh mẽ nông nghiệp theo hướng phát triển công nghiệp chế biến và thương mại - dịch vụ. Sự phối hợp giữa ngành công nghiệp nông sản thực phẩm cùng với dịch vụ phân phối, kho vận và các dịch vụ khác sẽ tạo ra rất nhiều việc làm và cơ hội sinh kế cho nông dân.
Thứ ba, tổ chức vận động và hỗ trợ người nông dân tham gia xây dựng các tổ hợp tác, hợp tác xã để tăng cường năng lực liên kết “sáu nhà” (nhà nông, Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà ngân hàng, nhà phân phối), nâng cao sức cạnh tranh và thu nhập của hộ nông dân. Các cấp hội nông dân đang triển khai tích cực Nghị quyết số 32/NQ-QH14 của Quốc hội, Quyết định số 461/QĐ-TTg, ngày 27-4-2018, của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ngày 05-7-2018, của Chính phủ, về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vì mục đích nâng cao đời sống nhân dân.
Thứ tư, tăng cường vai trò trung tâm và nòng cốt của Hội Nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh và đội ngũ hội viên Hội Nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, có đủ bản lĩnh văn hóa dân tộc và kỹ năng tham gia thị trường, tự chủ và chủ động trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, hiểu biết pháp luật về đất đai và biết góp giá trị quyền sử dụng đất để tập trung ruộng đất vì yêu cầu đạt lợi thế quy mô và giảm chi phí trong chuỗi giá trị.
Thứ năm, tiếp tục tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế, tranh thủ các đối tác hợp tác đầu tư phát triển nông nghiệp ở Việt Nam và tạo điều kiện cho nông dân Việt Nam đến thăm quan học tập, giới thiệu và chuyển giao các sản phẩm công nghiệp của các nước tiên tiến để nông dân Việt Nam nhập khẩu trực tiếp, góp phần xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới./.
Tin khác
- Khảo sát Chỉ số đánh giá chất lượng dịch vụ, vật tư nông nghiệp
- Hội thi Sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu tỉnh An Giang lần thứ VII/2024
- Một tỷ phú An Giang trồng lúa theo kiểu "mặt ruộng không dấu chân" là Nông dân Việt Nam xuất sắc 2024
- Phú Tân triển khai Đề án 01 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao trong vụ Thu Đông 2024 với diện tích 100 hecta
- Phú Thọ xuống giống 05 héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao.
- Xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu Nếp Phú Tân